Tràng Giang là bài thơ hay, vừa mang nét cổ điển qua những hình ảnh, vừa mang nét hiện đại thông qua từ ngữ. Bài thơ thể hiện nét đượm buồn, bao trùm toàn bộ không gian. Ra đời khi đất nước đang chống giặc, từng câu thơ tha thiết chất chứa nhiều nỗi niềm, ẩn chứa sự lo lắng và nỗi nhớ quê hương.
Chỉ với hình ảnh con sông dài và rộng, người đọc có thể cảm nhận rõ rệt tâm tư, tình cảm của mình. Nội dung bài thơ nói về cuộc đời nhỏ bé, lênh đênh trôi giữa dòng sông dài và rộng. The POET Magazine tóm tắt nội dung chính, thông tin tác giả, tác phẩm đầy đủ trong bài viết sau.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Huy Cận (1919 – 2005), tên thật là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (Hiện nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, Hà Tĩnh). Ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới diễn ra trong giai đoạn 1932 – 1945.
Tác giả bài thơ Tràng Giang có tham gia hoạt động cách mạng, ông đã giữ nhiều chức vụ cao thuộc Chính phủ nước ta. Một số vị trí ông đã đảm nhận gồm:
Phong cách thơ Huy Cận đầy tính suy tưởng và triết lý. Các tác phẩm được sáng tác xuyên suốt được phân thành 2 giai đoạn, dấu mốc chính là Cách mạng tháng 8.
Trước Cách mạng tháng 8 | Thơ Lửa thiêng (1939). Kinh cầu tự được viết theo dạng văn xuôi (1942). Vũ trụ ca theo dạng thơ (1940 – 1942). |
Sau Cách mạng tháng 8 | Thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958). Thơ Đất nở hoa (1960). Thơ Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973). Tiểu luận phê bình “Suy nghĩ về nghệ thuật” (1980 – 1982). |
Bài thơ Tràng Giang Huy Cận được sáng tác vào năm 1939 in trong sách Ngữ văn 12, được nhận định là một trong những tác phẩm tiêu biểu của tác giả này. Hình ảnh thiên nhiên được khắc họa đầy thơ mộng, thể hiện nét cổ điển được thể hiện thành công qua từng câu thơ.
Thông qua miêu tả cảnh, Huy Cận thành công thể hiện “cái tôi” trước cảnh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn. Đó là sự cô đơn, lẻ loi, một nỗi buồn trong khung cảnh vắng lặng, không có dấu hiệu của một người nào khác xuất hiện tại đó. Lần lượt từng câu thơ ghép lại cũng một lần nữa bộc lộ cảm xúc, về lòng yêu nước thiết tha.
Tràng Giang lớp 12 được viết theo thể thơ bảy chữ/thất ngôn trường thiên. Với loại thơ này, mỗi câu có 7 chữ và mang đậm phong cách Đường thi.
Bài thơ được sáng tác vào chiều thu năm 1939, lúc đó tác giả đang đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Khung cảnh lúc bấy giờ gợi lên suy nghĩ về kiếp người trôi nổi giữa dòng đời, tạo cảm hứng sáng tác cho Huy Cận.
Xuất xứ bài thơ là trong tập Lửa Thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận, sáng tác vào giai đoạn 1937 – 1940.
Tràng Giang lớp 11 bộc lộ “cái tôi” cô đơn, lẻ loi giữa cảnh thiên nhiên vô cùng rộng lớn. Đồng thời, tác phẩm cũng nói lên lòng yêu nước thầm kín.
Lột tả bức tranh thiên nhiên với hoàng hôn, sông dài, trời rộng, cánh chim chiều, bóng chiều sa kết hợp với thuyền nước. Không gian được mở ra rộng lớn, hoang sơ.
Qua những hình ảnh của thiên nhiên thể hiện tâm trạng của con người:
Tiêu đề thể hiện nét cổ kính vì “Tràng Giang” chính là sông dài. Vần “ang” là nét đặc biệt và gây chú ý vì tạo được cảm nhận âm thanh vang vọng.
Chính yếu tố này khiến không gian như đang rộng mở hơn, dư âm vang xa hơn. Tiêu đề này cũng giúp tác giả thể hiện rõ nỗi buồn miên man và sự cô đơn giữa không gian quá rộng lớn, nỗi lo lắng tình yêu quê hương, đất nước.
Phương thức biểu cảm.
Bố cục của bài thơ được chia làm 2 phần chính:
Thể hiện bức tranh thiên nhiên rộng mở, nói lên nỗi sầu vì cái tôi cô đơn. Đồng thời, tác giả còn thể hiện lòng yêu nước sâu sắc.
Bài thơ chính là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Trong nội dung có sử dụng đối, tả cảnh đầy tính tạo hình, dùng nhiều từ láy biểu cảm.
Biện pháp tu từ được sử dụng trong tác phẩm này gồm:
Tràng Giang gợi cảm xúc nhớ nhà khi tác giả đang đứng trong không gian mênh mông rộng lớn, chỉ có cảnh sông nước của sông Hồng. Sóng vỗ liên tục dưới khoảng trời bao la , âm thanh vắng lặng, xa xôi làm sự cô đơn ngày càng tăng thêm.
Không chuyến đò nào, không có cây cầu kết nối, chỉ có bèo trôi làm khung cảnh trở nên buồn và cô cạnh. Không có khói hoàng hôn trên sông, nhưng nhà thơ vẫn luôn nhớ về quê hương. Cảnh thiên nhiên êm đềm có chút buồn và cô quạnh cũng khiến nhà thơ nhớ quê nhà trước tình cảnh “Nước mất nhà tan”.
Xem thêm:
Tràng Giang là tác phẩm mang hơi hướng Đường thi, nhưng vẫn có sự kết hợp với phong cách hiện đại. Bài thơ hiện lên khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn, khắc họa thành công nỗi cô đơn và lòng yêu nước thầm kín của tác giả.
[internal_link]
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học (wiki), với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu. Ông là con trai Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, thuộc gia đình nổi tiếng hiếu học. Giáo sư giữ nhiều vai trò quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010.
Trợ cấp PAC (Flocculation) ngày càng được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp.…
Slogan Vietcombank là “Together for the future” tạm dịch là “Chung niềm tin vững tương…
Là một trong số ít các đơn vị sản xuất clo lỏng ở Việt Nam.…
Slogan quán nhậu hay cho quán ăn, nhà hàng của bạn nhân dịp khai trương…
Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân được đánh giá là…
This website uses cookies.