Soạn Vợ nhặt và tìm hiểu thông tin các câu hỏi để nắm được nội dung bài học. Đây là một trong những truyện ngắn phản ảnh sâu sắc xã hội Việt Nam ở thời điểm nạn đói 1945.
Theo dõi những câu hỏi về tác phẩm Vợ nhặt. Các câu hỏi trong chương trình sgk ngữ văn 11 Kết nối tri thức được hướng dẫn để học sinh nắm được phần nào bài học, có sự chuẩn bị trước khi đến lớp:
Về nạn đói năm 1945 : Đây là một tai họa khủng khiếp nhất của dân ta trong mấy thế kỉ. Do phát xít Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay cùng với chính sách cấm vận hai miền Bắc Nam nên chỉ trong hơn hai tháng, hai triệu người từ Quảng Trị trở ra chết đói thê thảm. Có nhiều gia đình, nhiều dòng họ, nhiều xóm làng đã bị xóa sổ trong nạn đói.
Nạn đói về sau này cũng được khá nhiều tác giả viết đến như một nỗi kinh hoàng : Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hồng,…
Không, vì nếu vượt qua được nghịch cảnh thì bạn sẽ trưởng thành hơn.
Khung cảnh ngày đói được gợi ra qua những hình ảnh : những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bề. dắt díu nhau như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.
Cảm giác rùng rợn và mùi hôi thối từ những xác chết con người nằm còng queo bên đường.
Điệu bộ : hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh còn thị có vẻ rón rén, e thẹn.
Cử chỉ : tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng với lũ trẻ con.
Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán, có vẻ hiểu được đôi phần. Mọi người đều thắc mắc xem đó là ai và cuối cùng là vợ anh cu Tràng.
Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.
Ngôn ngữ và cách ứng xử của người phụ nữ trước khi theo Tràng về nhà là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh :
Giàu tình yêu thương và lòng vị tha.
Sự ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy người đàn bà lạ trong nhà.
Bà vừa mừng vừa tủi khi hiểu mọi chuyện.
=> Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp : hào phóng, quên đi hết những cay cực tăm tối trên đời, chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả, tin tưởng sự thay đổi ở tương lai.
Thị đã thay đổi hoàn toàn, thị trở nên “hiền hậu đúng mực”, đảm đang, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Điều này cho thấy rằng chính con người có thể thay đổi được hoàn cảnh, đem đến hơi ấm mới cho gia đình. Đến khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ Tứ tươi cười khen “Ngon đáo để”.
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý nghĩa rất cao về nghệ thuật. Là một trong những chi tiết có tính thúc đẩy sự phát triển cốt truyện, khắc họa rõ nét tính cách và tâm lí, hành động của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Tuy là một chi tiết nhỏ nhưng lại mang sức gợi cảm rất cao. Đó là sự tin tưởng, một khát vọng sống vươn lên hoàn cảnh, và còn là sức mạnh của tình thương, một trái tim đẹp của con người dành cho nhau. Thông qua đó còn gửi gắm một tấm lòng nhân đạo của Kim Lân dành cho con người, luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết độc đáo “nồi cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Chi tiết đã nâng tầm của câu chuyện lên và khiến cho ta, về sau khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi cháo khoán” giản dị như một hơi ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.
Bởi bà muốn động viên các con có thêm động lực và lạc quan hơn trong những ngày đói thảm hại này.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi, cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít và nghĩ tới những người phá kho thóc Nhật.
Hình ảnh lá cờ hiện lên trong đầu Tràng : Tràng đã bắt đầu mơ hồ tìm thấy con đường đi cho tương lai của mình đồng thời cũng nói lên bước đầu của sự nhận thức, giác ngộ với cách mạng của những người dân trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Các thông tin soạn bài Ngữ văn lớp 11 tác phẩm này giúp học sinh giải đáp các câu hỏi, ý nghĩa tác phẩm, ý nghĩa của nhan đề Vợ nhặt,…
Giữa nhan đề Vợ nhặt và nội dung câu chuyện có mối quan hệ với nhau như thế nào sẽ được giải đáp:
Trước hết, từ “vợ” là một danh từ thiêng liêng, dùng để chỉ người phụ nữ trong mối quan hệ được pháp luật công nhận với “chồng”. Theo phong tục, vợ chồng chỉ được công nhận khi có sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm. Còn “nhặt” là hành động cầm vật bị đánh rơi lên.
Kim Lân đã sáng tạo ra một nhan đề độc đáo. Vì người ta chỉ nói “nhặt” được một món đồ nào đó, chứ không ai nhặt được một con người về làm vợ bao giờ cả. Nhưng qua đó, nhà văn đã thể hiện được cảnh ngộ thê thảm của con người lúc bấy giờ.
Nhan đề “vợ nhặt” trước hết khái quát được tình huống của truyện. Đồng thời đó cũng là lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ thực dân đã đẩy người nông dân vào tình cảnh nghèo đói, người “chết như ngả rạ”.
Ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt có tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng chỉ là một trong số đó. Đồng thời, qua nhan đề nhà văn cũng thể hiện sự đồng cảm xót xa cho cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói 1945.
Tình huống truyện Vợ Nhặt Kim Lân : một anh chàng ngụ cư, xấu xí, nghèo khổ như Tràng lại có thể “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng, chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời nói bông đùa “tầm phơ tầm phào” và vài bát bánh đúc.
Ý nghĩa của nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt:
Giá trị hiện thực :
1/ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
2/ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
Giá trị nhân đạo:
1/ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
2/ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
Tràng từ một người khờ khạo, sống vô lo vô nghĩ cuối cùng cũng biết lo cho cuộc sống tương lai.
Thị từ một cô gái thô kệch, đáo để cuối cùng trở thành một người vợ hiền dịu, đảm đang, tháo vát.
Bà cụ Tứ từ một người ảm đạm, mặt mày xám xịt trở thành người vui vẻ, tươi tắn hẳn lên.
NHÂN VẬT TRÀNG
Kim Lân rất hiểu người nông dân. Ông đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc niềm khát khao tổ ấm gia đình qua nhân vật Tràng trong tác phẩm:
Tràng thì rõ ra là một chàng trai thật thà, nhưng vụng về, thô kệch. Đi cùng với vợ về nhà, anh ta không giấu nổi vẻ “phớn phở khác thường” lại “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lấp lánh”. Anh ta muốn nói với vợ một vài câu “rõ tình tứ” mà chẳng biết nói thế nào, “cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia”.
Trong khi chị vợ “rón rén”, “e thẹn”, lại lo lắng nữa: “hai con mắt tư lự”, “mặt bần thần”, thì anh ta tỏ ra nóng lòng sốt ruột. Đợi mãi mẹ chưa về, anh ta gắt lên: “Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết?”. Đến khi trông thấy mẹ, anh ta “reo lên như một đứa trẻ” và lật đật chạy ra.
Đây là một chàng trai tuy không còn ít tuổi, nhưng hình như chưa bao giờ biết suy nghĩ một điều gì nghiêm chỉnh, nên vẫn nông nổi, ngờ nghệch, trong óc có nhiều thắc mắc rất ngớ ngẩn: Thấy vợ không vui. anh ta không hiểu: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?”. Nhìn mẹ lau nước mắt, anh ta cũng lấy làm lạ: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!”.
Lúc quyết định lấy người đàn bà làm vợ: mặc dầu “chợn” nhưng Tràng vẫn tặc lưỡi: “Chậc, kệ!”. Niềm khát khao tổ ấm gia đình như một tiềm thức, một tình cảm đã có từ lâu trong lòng người nông dân nghèo khổ này, giờ đây bật lên thành tiếng nói, thành hành động.
Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư: Tràng tỏ ra thích chí và tự đắc: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Kim Lân đã diễn tả thật tinh tế cái vẻ hãnh diện hồn nhiên của một con người lần đầu tiên đã vợ của mình đi qua xóm làng.
Trong buổi sáng đầu tiên có gia đình: Tràng bỗng nhận ra sự thay đổi mới mẻ, khác lạ: từ nhà cửa, sân vườn… cho đến mẹ và vợ hắn đều khác. “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với ngôi nhà của hắn lạ lùng”. Và “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.”. Bởi vì hắn đã có một gia đình, Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Bây giờ hắn mới thấy hắn “nên người”, hắn thấy hắn có “bổn phận” phải lo lắng cho vợ con sau này… Khát khao tổ ấm gia đình của Tràng đã được Kim Lân diễn tả tinh tế và sâu sắc, người đọc thấy rõ hạnh phúc gia đình đã lay động mạnh mẽ và làm biến chuyển tâm tư tình cảm cũng như nhận thức của nhân vật, nâng con người của Tràng lên cao hơn, đẹp hơn. Đoạn văn là một phát hiện nhân đạo và nhân văn của Kim Lân về những người nông dân nghèo khổ, tuy rằng đang trên bờ vực thẳm của cái chết nhưng họ vẫn hướng về sự sống, về tổ ấm gia đình.
NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ NHẶT
Người đàn bà làm vợ nhặt không tên không họ, không quê, không tài sản… tác giả gọi là “Thị”, anh cu Tràng gọi là “đằng ấy”. Chỉ một vài hôm đói khát mà thị trông vẻ tiều tụy: “Hôm nay thị rách quá,áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Thị cong cớn, chao chát, không đợi mời chào “sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc”… Thị không còn xấu hổ. Thị vớ lấy câu nói đùa dở hơi của Tràng mà chạy theo về làm vợ.
Vợ Tràng thì từ cái lần gặp Tràng ở nhà kho và chợ tỉnh đến khi thành vợ của Tràng, thái độ, cử chỉ, cung cách ăn nói biến đổi hẳn: “Tràng nom thị hôm nay hôm khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Thực ra khi ở chợ, chỉ vì đói quá mà chị phải trơ trẽn, liều lĩnh như thế. Đã vì miếng ăn thì còn sĩ diện gì mà giữ gìn, e thẹn:
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”.
Nhưng khi đã đi theo Tràng về làm vợ anh ta rồi, chị không khỏi lo nghĩ: Sự liều lĩnh của mình sẽ phải trả giá như thế nào đây? Chuyện ăn đời ở kiếp chứ có phải trò đùa đâu! Biết anh ta thế nào, gia đình, nhà cửa anh ta ra sao? Nhìn cái nhà anh ta vắng teo, rúm ró, chị “nén một tiếng thở dài”. Vào hẳn trong nhà rồi, thị vẫn “ngồi mớm xuống mép giường… hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.
Nhưng khi thấy mẹ chồng hiền lành, có tình cảm thật sự với con dâu, thì chị cũng yên lòng. Và đã là nàng dâu thật rồi thì phải tỏ ra là người nết na, đứng đắn, cũng biết tu chí làm ăn…
Đang trong tâm trạng ngao ngán ấy họ nghe tiếng trống thúc sưu thuế lại nổi lên. Biết bao người như gia đình anh chị Dậu sợ hãi tiếng trống oan khiên đến tán gia bại sản ấy. Rồi hình ảnh đàn quạ xuất hiện, Với nông dân, quạ xuất hiện là điềm gở báo sự chết chóc. Mà đã có chết chóc thật nên quạ đói mới kéo về làng đông. Chúng là biểu tượng của đen tối, bế tắc, độc ác…
Nhưng cũng nhờ tiếng trống ấy mà Tràng được cô “vợ nhặt” cho biết chuyện người mạn trên không chịu đóng thuế và còn phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
Hóa ra là đã có lần hắn gặp. nhưng chi nghe láng máng nên chạy trốn.
Bây giờ có cô “vợ nhặt”, hắn biết nhiều hơn, rõ hơn. Từ đó “ Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” . Vào bế tắc thì sẽ có biến. Đã có biến rồi thì hẳn sẽ thông, sẽ có một cuộc đời mới hiện ra cho đôi vợ chồng cùng đinh ấy…
NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ
Xuất hiện trong không gian câu chuyện với dáng đi “lọng khọng […] vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng” cùng với tiếng ho “húng hắng” sau khi Tràng – người con trai bà cụ bất ngờ “nhặt” được vợ và đưa vợ về nhà ra mắt mẹ chồng, dễ gợi cảm thương về một người mẹ nông dân già nua, gầy gò, nghèo khó.
Diễn biến tâm trạng:
Rõ ràng, người “vợ nhặt” khi quyết định liều lĩnh làm vợ một người đàn ông xa lạ là đã tự đặt mình vào một tình thế bất lợi, dễ bị coi là mất giá trị vì theo không. Khi lâm vào tình thế ấy, người vợ nhặt có thể lường trước được những nguy cơ mà mình sẽ phải đối mặt. Song vì bản năng sinh tồn, người phụ nữ ấy đã bất chấp tất cả.
Vậy mà, người mẹ chồng không những không rẻ rúng mà còn đối xử hết sức bao dung, độ lượng “Bà lão khẽ thở dài, […] nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Đoạn văn độc thoại nội tâm ghi lại tiếng nói đầy thương xót cất lên tự đáy lòng một người mẹ nghèo mà rộng lượng.
Đau chỉ có vậy, tuy không cất lên thành lời nói nhưng người mẹ chồng ấy tỏ rõ thái độ hàm ơn đối với người con dâu. Đó là suy nghĩ của một người mẹ đang tự đặt mình vào cảnh ngộ éo le trớ trêu của người khác để hiểu, chia sẻ, an ủi những người cũng có cùng số phận bất hạnh như mình, như con mình. Hiếm có người mẹ chồng nào đối xử với con dâu nhân hậu, độ lượng đến như vậy.
Với ý nghĩa ấy, bà cụ Tứ nhẹ nhàng nói với cô con dâu mới “ừ,thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” . “Mừng lòng” chứ không phải bằng lòng bởi bà cụ Tứ chấp nhận tư cách con dâu của người đàn bà lạ là hoàn toàn về tình, lấy cái tình mà đối xử với con dâu, vì tình mà thể tất, bỏ qua tất cả. Câu nói ấy không chỉ khiến người phụ nữ “vợ nhặt” trút được gánh nặng tâm lí mà cả người con trai cũng thở phào nhẹ nhõm. Bà cụ còn nhắc nhở cho con dâu bằng cách nói rất chân thành về gia cảnh, rồi như để thanh minh, bà lão lại nói với con dâu những lời đầy ân tình mà thương xót.
Bao trùm là tâm trạng vui mừng hạnh phúc, tin tưởng của người mẹ khi con đã yên bề gia thất:
Bà cụ Tứ “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước […] “. Ta có cảm tưởng người mẹ lao động già nua ấy như đang được hồi sinh. Tưởng như sự sống nơi người mẹ ấy đang tắt dần vậy mà hôm nay bỗng nhiên bừng lên.
Điều đặc biệt, bữa tiệc đón cô dâu mới rất thảm hại nhưng bà lão vẫn “vừa ăn vừa kể chuyện […] nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này” . Thì ra khi con thành gia thất, người mẹ nghèo ấy dù không để lại cho con thứ tài sản vật chất gì có giá trị nhưng ta tặng cho con món quà tinh thần đầy ý nghĩa là những lời động viên, khích lệ hướng các con đến tương lai tươi sáng như một chỗ bám víu tạo sức mạnh vượt qua thử thách nghiệt ngã của hiện tại. Đó là ảo tưởng nhưng là ảo tưởng rất tích cực bởi nó chứa đựng niềm tin được vun đắp, nuôi dưỡng bằng sự trải nghiệm cả cuộc đời một người mẹ nông dân nghèo khó “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Đây cũng là niềm tin lành mạnh, trong sáng, hồn nhiên thể hiện nhân sinh quan tích cực của người lao động từ xa xưa.
Tác phẩm khép lại với hình ảnh một người mẹ lao động già nua, còm cõi đứng ở bên kia cái dốc cuộc đời mà trong lòng chưa bao giờ, chưa bao giờ nguội tắt niềm tin hi vọng vào sự sống và tương lai.
Miêu tả chân thật, tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật từ bà cụ Tứ, Kim Lân đã khắc họa thành công hình tượng một người mẹ nông dân có số phận bất hạnh vì nghèo khổ nhưng lại ngời sáng những vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm cao quý: từng trải, sống sâu sắc, giàu lòng nhân ái, luôn lạc quan, đặc biệt luôn sống vì con, cho con.
Qua hình tượng bà cụ Tứ, Kim Lân đã thể hiện được một phương diện quan trọng làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cảm động của tác phẩm. Đó là niềm tin mãnh liệt của nhà văn vào con người, sự sống khi con người đối mặt với những thử thách nghiệt ngã của hoàn cảnh.
Chủ đề của Vợ Nhặt là phản ánh đời sống của những con người bần cùng, lương thiện, trong hoàng cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra.
Giá trị tư tưởng : lên án xã hội thực dân phong kiến tàn bạo đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945, biến con người thành vật vô giá trị, người ta có thể nhặt bất cứ lúc nào. Nhà văn phát hiện và diễn tả khát vọng của người lao động, cho dù bị đẩy vào tình cảnh bi đát, phải sống trong sự đe dọa của cái chết, vẫn khát khao tình thương, khao khát hạnh phúc gia đình, hướng về sự sống, tin tưởng tương lai (mà tương lai gắn với cách mạng)
Truyện ngắn Vợ nhặt không được coi là truyện cổ tích trong nạn đói vì dựa vào các đặc điểm của truyện cổ tích thì tác phẩm này không phù hợp. Câu chuyện có kết thúc mở, hình ảnh lá cờ kết thúc tác phẩm rất mơ hồ, phải dựa vào ý nghĩa tường minh để minh giải cho hình ảnh này. Còn đối với truyện cổ tích thì luôn là cái kết có hậu, cái kết trừng phạt những kẻ xấu. Truyện ngắn này chỉ khắc họa hình ảnh những con người nông dân nghèo khổ còn thế lực xấu thì nói rất ít và không có kết cục của những thế lực ấy.
Tổng hợp các câu hỏi liên quan ngoài phần soạn văn Vợ nhặt. Đây là những câu thường được giáo viên đặt cho học sinh để đánh giá hả năng đọc hiểu của bạn:
Vợ nhặt là truyện ngắn mô tả về cuộc sống con người trong nạn đói năm 1945. Từ đó, tác giả ca ngợi vẻ đẹp về tình người và khát vọng sống của người lao động, niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Tác giả Kim Lân đặt nhan đề Vợ nhặt để nói lên tình huống truyện được đề cập. Chỉ với 2 lần gặp gỡ mà đã “nhặt được vợ” và nên duyên vợ chồng.
Việc đặt nhan đề như vậy giúp chúng ta hình dung được cảnh ngộ bi thảm của con người thời bấy giờ. Khi phụ nữ có thể như một món đồ để nhặt về do cái nghèo, cái đói, cái khổ đã khiến số phận của họ trở nên đắng cay.
Qua truyện “Vợ nhặt”, tác giả Kim Lân còn cho ta thấy được trong hoạn nạn, con người lao động càng thương yêu nhau hơn dù trong hoàn cảnh khó khăn, khốn cùng, họ vẫn giữ được phẩm chất đẹp “ đói cho sạch rách cho thơm”. Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu nguyên thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư, khi hòa bình lập lại (1945), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Cuộc sống khắc nghiệt đọa đày con người bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, nhưng nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng người mẹ khốn khổ kia. Dường như ba mẹ con Tràng đã tìm thấy được niềm vui ẩn giấu trong sự nương tựa, cưu mang nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ vượt qua cơn hoạn nạn khủng khiếp nà. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà nhà văn Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dưng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
Xem thêm:
Tài liệu soạn Vợ nhặt đã được cập nhật chính xác tại trang phân tích văn học The POET Magazine. Học sinh tham khảo và soạn bài đầy đủ để có thể hiểu rõ về nội dung tác phẩm tại buổi học.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học (wiki), với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu. Ông là con trai Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, thuộc gia đình nổi tiếng hiếu học. Giáo sư giữ nhiều vai trò quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010.
Những bài thơ thả thính tên Anh rất đa dạng, từ chủ đề hài hước thú…
Trợ cấp PAC (Flocculation) ngày càng được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp.…
Slogan Vietcombank là “Together for the future” tạm dịch là “Chung niềm tin vững tương…
Là một trong số ít các đơn vị sản xuất clo lỏng ở Việt Nam.…
Slogan quán nhậu hay cho quán ăn, nhà hàng của bạn nhân dịp khai trương…
This website uses cookies.